Người phi công Việt Nam đầu tiên là ai?- ST
Phố núi...
Người phi công Việt Nam đầu tiên là ai?
Đỗ Hữu Vị là con thứ năm trong số 11 người con của của tổng đốc Phương
(Đỗ Hữu Phương) sinh 1881 (năm Tý), nên còn có tên là Đỗ Hữu Tý, tử năm
1916 tại khu vực vùng sông Somme, Pháp.
Theo một tư liệu của đại tá Maurice Rives với tựa đề là « Les
militaires indochinois en Europe (1914-1918) » thì khi Đức tuyên chiến
với Pháp mở đầu trận Đệ nhất thế chiến khốc liệt, quân đội Đông Dương
với lính bản xứ gồm có 23.930 người, trong đó có 13.373 lính đánh bộ,
ngoài ra thành phần lính dự bị có 29.064 người, trong đó có 23.936 lính
bản xứ. Tướng Joffre cho rằng người Đông Dương không đủ thể lực để đánh
trận ở châu Âu. Nhưng đến năm 1915 khi lực lượng quân đội Pháp đã bị
thiệt hại nặng nề trên các chiến trường châu Âu, chính quyền thực dân
Pháp tại Đông Dương mới cung ứng nhân sự cho đại chiến thứ nhất. Từ năm
1915 cho đến 1918, Pháp đã huy động, chiêu mộ tổng cộng 93.411 người,
trong đó có 43.430 lính chiến đấu, 9.019 y tá, 5.339 người phục dịch và
hành chánh, 48.981 lính thợ chuyên nghiệp như thợ máy, thợ sơn, thợ da,
thợ làm thuốc súng, vũ khí, lái xe, bác sĩ, kỹ sư, tải thương… và không
chuyên nghiệp. Tính theo gốc tích, thì có 24% người miền Bắc (Tonkin),
32% người miền Trung (Annam), 22% người miền Nam (Cochinchine) và 22%
người Cam Bốt. Ngân quỹ Đông Dương cũng đóng góp 541 triệu quan Pháp cho
chi phí chiến tranh của Pháp. Thêm vào đó, 175 khẩu đại bác lên đường
đi Marseille, hàng chục tấn hàng hóa các loại cũng được chuyển đi cung
ứng cho chiến trường tại Pháp, thậm chí xe xích lô (pousse-pousse) cũng
được gởi sang Pháp để tải thương. Nhân sự và vật liệu được chuyển qua
đường châu Phi như Cameroune, Djibouti, Madagascar, Égypte…để sau đó đi
tiếp về cảng Marseille. Đoạn đường di chuyển cực khổ đó đã làm cho một
số người chết vì bệnh tật trước khi đặt chân lên đất Pháp. Chính phủ bảo
hộ tỏ ra quan tâm đến thành phần lính Đông Dương, cấp phát quần áo mùa
đông, may cho « cai quan » (cái quần) không có nút, chỉ có giây thắt,
phân phát trầu, cau, ớt và thành lập một xưởng làm nước mắm trên đất
Pháp.
Những người lính Đông Dương được các
đồng đội « les poilus » (*) công nhận là dũng cảm, gan dạ, bình tĩnh và
biết tổ chức. Nhiều người được thưởng huân chương « thập giá chiến tranh
» và được xem là « anh hùng » của nước Pháp trong đại chiến thứ nhất.
Đa số hy sinh trong lãng quên, xương cốt của họ còn ở Đài kỷ niệm
Douaumont (l’ossuaire de Douaumont), hay ở nghĩa trang Géré và
d’Udonista ở Albanie.
Trong số những phi công đầu tiên của Pháp xuất xứ từ Đông Dương có Phan
Thất Tạo, Cao Đắc Minh, Felix Xuân Nha, Đỗ Hữu Vị, nhưng quan ba (đại
úy), capitaine Đỗ Hữu Vị, được xem là anh hùng nổi tiếng nhất. Đến nỗi,
nhà nước Pháp cho phát hành tem « Đỗ Hữu Vị ».
Đỗ Hữu Vị trên máy bay Blériot
Sau bậc trung học tại trường Janson-de-Sailly, một trường nổi tiếng vào
bậc nhất nằm trong quận 16 của Paris, Đỗ Hữu Vị nhập trường sĩ quan
Saint-Cyr vào ngày 01.10.1904. Năm 1906 Đỗ Hữu Vị ra trường với quân hàm
thiếu uý (sous-lieutenant) trong binh đoàn Lê dương số 1 (1er régiment
Etranger).
Từ năm 1907 cho đến 1908, Đỗ Hữu Vị tham chiến tại Oujda Maroc,
Casablanca và trong khu vực le Haut-Guir septentrional. Từ cuối năm 1908
cho đến 1910, ông tham chiến tại biên giới Maroc và Algérie.
Ngày
10.12.1910, Đỗ Hữu Vị vào trường quân sự lái máy bay (l’école militaire
de pilotage) và 11 tháng sau tốt nghiệp với chức vị trung úy phi công
(lieutenant-pilote) nhận văn bằng số 649 (brevet n°649) của hội Aéroclub
de France, thành lập năm 1898. Đỗ Hữu Vị gặp trung úy Victor Ménard và
trở thành bạn cùng lái trong chuyến du hành nước Pháp trên không năm
1911. Năm 1912 Đỗ Hữu Vị thuyên chuyển đến Maroc và phục vụ đến năm
1913. Một con đường được đặt tên « Do-Hu » tại Casablanca. Năm 1914, Đỗ
Hữu Vị trở về Saigon để học thực hành về một loại thuyền lướt trên mặt
nước, chạy bởi động cơ cánh quạt máy bay do Charles de Lambert chế tạo
(l’hydroglisseur Lambert) trên sông Cửu Long và sông Hồng. Nhưng khi đại
chiến thứ nhất bùng nổ, Đỗ Hữu Vị trở về đơn vị chiến đấu tại Pháp. Năm
1915, trên đường trở về đơn vị sau một trận đánh, máy bay của Đỗ Hữu Vị
rớt vì bị bão cuốn, ông bị thương nặng gẫy cánh tay trái, hàm mặt và
phần sọ bên dưới, hôn mê chín ngày, nhưng sống sót.
Không
được lái máy bay nữa, Đỗ Hữu Vị, với quân hàm đại úy, xin trở về quân
đội Lê dương số 1, được phong chỉ huy đội quân số 7 (7ème compagnie) có
khoảng từ 100 đến 300 lính, chiến đấu trên mặt trận vùng Somme, là mặt
trận khốc liệt nhất thời ấy. Ngày 9.07.1916 vào lúc 16 giờ, trong một
cuộc tấn công quân Đức trên địa bàn giữa hai làng Belloy-en-Santerre và
Estrée, Đỗ Hữu Vị xung phong, bị trúng nhiều phát đạn, chết ngay trên
trận tuyến. Đỗ Hữu Vị được chôn cất tại làng Dompierre thuộc vùng Somme.
Năm 1921 người anh cả là quan năm Đỗ Hữu Chấn chuyển hài cốt về an táng
trong phần mộ gia đình tại Việt Nam. Từ đường dòng họ Đỗ Hữu hiện nằm
trên đường Điện Biên Phủ, Quận 3, còn gọi là Đền Bà Lớn.
Con đường mới mang tên Do Huu Vi thuộc làng Laffaux vùng Picardie, Pháp,
nơi phong cảnh núi đồi chập chùng, không cao lắm, nhưng lên dốc xuống
dốc cũng đủ mệt. Nằm trong một khu vực dân cư mới xây dựng, đường Do Huu
Vi, tuy ngắn, nhưng có ý nghĩa, vì bên cạnh đó là một khu địa đạo, lô
cốt cũ, chứng tích của chiến tranh đã qua. Quân Đức phải chọc thủng
phòng tuyến ở vùng này để tiến về Paris, nên xương máu của cả hai bên
Pháp – Đức đổ xuống rất nhiều.
Thời điểm Đệ nhất thế chiến ngành hàng không, nhất là không quân, chỉ
mới phôi thai, nên những người phi công đầu tiên rất được thán phục,
ngưỡng mộ. Năm 1914 Pháp chế tạo máy bay cánh quạt quân đội đầu tiên và
sử dụng ngay trong đại chiến thứ nhất. Vì vậy sự kiện Đỗ Hữu Vị, một
người "An nam mít“, có bằng lái máy bay từ năm 1911 là một điều rất mới
mẻ thời ấy và trong lịch sử không quân Pháp.
Ở Sài Gòn trước kia có một con đường mang tên Đỗ Hữu Vị, chạy từ bùng binh chợ Bến Thành đến chợ cũ, giáp đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Hiện nay, đường Đỗ Hữu Vị được đổi tên lại là đường Huỳnh Thúc Kháng ở quận 1. Tại Hà Nội, phố Đỗ Hữu Vị thời Pháp thuộc được đổi tên lại thành phố Cửa Bắc hiện nay. Một số trường học được mang tên Đỗ Hữu Vị, trong đó có trường Kỹ thuật Cao Thắng tại Saigon trước đây là trường máy Đỗ Hữu Vị.
Video ngắn (2 phút) về Đỗ Hữu Vị vừa được chiếu trên TV Pháp:
Chú thích:
(*). “Les poilus”: (Những người lông lá) ý chỉ quân lính trong thời đại chiến thứ nhất ngày đêm ăn ngủ chiến đấu trong các dãy địa đạo, chiến hào, không thể có điều kiện vệ sinh, nên râu tóc mọc bù xù, hôi hám, dơ bẩn.
(nguồn: http://mttuyet.wordpress.com/ ST sưu tầm)
ĐỖ HỮU VỊ (1881-1916) |
Đỗ Hữu Vị là con thứ năm trong số 11 người con của của tổng đốc Phương
(Đỗ Hữu Phương) sinh 1881 (năm Tý), nên còn có tên là Đỗ Hữu Tý, tử năm
1916 tại khu vực vùng sông Somme, Pháp.
Theo một tư liệu của đại tá Maurice Rives với tựa đề là « Les
militaires indochinois en Europe (1914-1918) » thì khi Đức tuyên chiến
với Pháp mở đầu trận Đệ nhất thế chiến khốc liệt, quân đội Đông Dương
với lính bản xứ gồm có 23.930 người, trong đó có 13.373 lính đánh bộ,
ngoài ra thành phần lính dự bị có 29.064 người, trong đó có 23.936 lính
bản xứ. Tướng Joffre cho rằng người Đông Dương không đủ thể lực để đánh
trận ở châu Âu. Nhưng đến năm 1915 khi lực lượng quân đội Pháp đã bị
thiệt hại nặng nề trên các chiến trường châu Âu, chính quyền thực dân
Pháp tại Đông Dương mới cung ứng nhân sự cho đại chiến thứ nhất. Từ năm
1915 cho đến 1918, Pháp đã huy động, chiêu mộ tổng cộng 93.411 người,
trong đó có 43.430 lính chiến đấu, 9.019 y tá, 5.339 người phục dịch và
hành chánh, 48.981 lính thợ chuyên nghiệp như thợ máy, thợ sơn, thợ da,
thợ làm thuốc súng, vũ khí, lái xe, bác sĩ, kỹ sư, tải thương… và không
chuyên nghiệp. Tính theo gốc tích, thì có 24% người miền Bắc (Tonkin),
32% người miền Trung (Annam), 22% người miền Nam (Cochinchine) và 22%
người Cam Bốt. Ngân quỹ Đông Dương cũng đóng góp 541 triệu quan Pháp cho
chi phí chiến tranh của Pháp. Thêm vào đó, 175 khẩu đại bác lên đường
đi Marseille, hàng chục tấn hàng hóa các loại cũng được chuyển đi cung
ứng cho chiến trường tại Pháp, thậm chí xe xích lô (pousse-pousse) cũng
được gởi sang Pháp để tải thương. Nhân sự và vật liệu được chuyển qua
đường châu Phi như Cameroune, Djibouti, Madagascar, Égypte…để sau đó đi
tiếp về cảng Marseille. Đoạn đường di chuyển cực khổ đó đã làm cho một
số người chết vì bệnh tật trước khi đặt chân lên đất Pháp. Chính phủ bảo
hộ tỏ ra quan tâm đến thành phần lính Đông Dương, cấp phát quần áo mùa
đông, may cho « cai quan » (cái quần) không có nút, chỉ có giây thắt,
phân phát trầu, cau, ớt và thành lập một xưởng làm nước mắm trên đất
Pháp.
Những người lính Đông Dương được các
đồng đội « les poilus » (*) công nhận là dũng cảm, gan dạ, bình tĩnh và
biết tổ chức. Nhiều người được thưởng huân chương « thập giá chiến tranh
» và được xem là « anh hùng » của nước Pháp trong đại chiến thứ nhất.
Đa số hy sinh trong lãng quên, xương cốt của họ còn ở Đài kỷ niệm
Douaumont (l’ossuaire de Douaumont), hay ở nghĩa trang Géré và
d’Udonista ở Albanie.
Trong số những phi công đầu tiên của Pháp xuất xứ từ Đông Dương có Phan
Thất Tạo, Cao Đắc Minh, Felix Xuân Nha, Đỗ Hữu Vị, nhưng quan ba (đại
úy), capitaine Đỗ Hữu Vị, được xem là anh hùng nổi tiếng nhất. Đến nỗi,
nhà nước Pháp cho phát hành tem « Đỗ Hữu Vị ».
Đỗ Hữu Vị trên máy bay Blériot
Sau bậc trung học tại trường Janson-de-Sailly, một trường nổi tiếng vào
bậc nhất nằm trong quận 16 của Paris, Đỗ Hữu Vị nhập trường sĩ quan
Saint-Cyr vào ngày 01.10.1904. Năm 1906 Đỗ Hữu Vị ra trường với quân hàm
thiếu uý (sous-lieutenant) trong binh đoàn Lê dương số 1 (1er régiment
Etranger).
Từ năm 1907 cho đến 1908, Đỗ Hữu Vị tham chiến tại Oujda Maroc,
Casablanca và trong khu vực le Haut-Guir septentrional. Từ cuối năm 1908
cho đến 1910, ông tham chiến tại biên giới Maroc và Algérie.
Đại úy phi công Đỗ Hữu Vị, France 1911 (Người đứng thứ hai bên trái) |
Ngày
10.12.1910, Đỗ Hữu Vị vào trường quân sự lái máy bay (l’école militaire
de pilotage) và 11 tháng sau tốt nghiệp với chức vị trung úy phi công
(lieutenant-pilote) nhận văn bằng số 649 (brevet n°649) của hội Aéroclub
de France, thành lập năm 1898. Đỗ Hữu Vị gặp trung úy Victor Ménard và
trở thành bạn cùng lái trong chuyến du hành nước Pháp trên không năm
1911. Năm 1912 Đỗ Hữu Vị thuyên chuyển đến Maroc và phục vụ đến năm
1913. Một con đường được đặt tên « Do-Hu » tại Casablanca. Năm 1914, Đỗ
Hữu Vị trở về Saigon để học thực hành về một loại thuyền lướt trên mặt
nước, chạy bởi động cơ cánh quạt máy bay do Charles de Lambert chế tạo
(l’hydroglisseur Lambert) trên sông Cửu Long và sông Hồng. Nhưng khi đại
chiến thứ nhất bùng nổ, Đỗ Hữu Vị trở về đơn vị chiến đấu tại Pháp. Năm
1915, trên đường trở về đơn vị sau một trận đánh, máy bay của Đỗ Hữu Vị
rớt vì bị bão cuốn, ông bị thương nặng gẫy cánh tay trái, hàm mặt và
phần sọ bên dưới, hôn mê chín ngày, nhưng sống sót.
Không
được lái máy bay nữa, Đỗ Hữu Vị, với quân hàm đại úy, xin trở về quân
đội Lê dương số 1, được phong chỉ huy đội quân số 7 (7ème compagnie) có
khoảng từ 100 đến 300 lính, chiến đấu trên mặt trận vùng Somme, là mặt
trận khốc liệt nhất thời ấy. Ngày 9.07.1916 vào lúc 16 giờ, trong một
cuộc tấn công quân Đức trên địa bàn giữa hai làng Belloy-en-Santerre và
Estrée, Đỗ Hữu Vị xung phong, bị trúng nhiều phát đạn, chết ngay trên
trận tuyến. Đỗ Hữu Vị được chôn cất tại làng Dompierre thuộc vùng Somme.
Năm 1921 người anh cả là quan năm Đỗ Hữu Chấn chuyển hài cốt về an táng
trong phần mộ gia đình tại Việt Nam. Từ đường dòng họ Đỗ Hữu hiện nằm
trên đường Điện Biên Phủ, Quận 3, còn gọi là Đền Bà Lớn.
Làng Laffaux vùng Picardie nước Pháp- nơi máy bay của Đỗ Hữu Vị bị rơi năm 1915. Nước Pháp đã vinh danh và đặt tên Do Huu Vi cho con đường mới mở chạy qua khu vực này. |
Con đường mới mang tên Do Huu Vi thuộc làng Laffaux vùng Picardie, Pháp,
nơi phong cảnh núi đồi chập chùng, không cao lắm, nhưng lên dốc xuống
dốc cũng đủ mệt. Nằm trong một khu vực dân cư mới xây dựng, đường Do Huu
Vi, tuy ngắn, nhưng có ý nghĩa, vì bên cạnh đó là một khu địa đạo, lô
cốt cũ, chứng tích của chiến tranh đã qua. Quân Đức phải chọc thủng
phòng tuyến ở vùng này để tiến về Paris, nên xương máu của cả hai bên
Pháp – Đức đổ xuống rất nhiều.
Thời điểm Đệ nhất thế chiến ngành hàng không, nhất là không quân, chỉ
mới phôi thai, nên những người phi công đầu tiên rất được thán phục,
ngưỡng mộ. Năm 1914 Pháp chế tạo máy bay cánh quạt quân đội đầu tiên và
sử dụng ngay trong đại chiến thứ nhất. Vì vậy sự kiện Đỗ Hữu Vị, một
người "An nam mít“, có bằng lái máy bay từ năm 1911 là một điều rất mới
mẻ thời ấy và trong lịch sử không quân Pháp.
Loại máy bay Caudron G-3 trong Đại chiến thứ nhất, do Đỗ Hữu Vị lái |
Ở Sài Gòn trước kia có một con đường mang tên Đỗ Hữu Vị, chạy từ bùng binh chợ Bến Thành đến chợ cũ, giáp đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Hiện nay, đường Đỗ Hữu Vị được đổi tên lại là đường Huỳnh Thúc Kháng ở quận 1. Tại Hà Nội, phố Đỗ Hữu Vị thời Pháp thuộc được đổi tên lại thành phố Cửa Bắc hiện nay. Một số trường học được mang tên Đỗ Hữu Vị, trong đó có trường Kỹ thuật Cao Thắng tại Saigon trước đây là trường máy Đỗ Hữu Vị.
Phiếu ghi nơi tử trận tại làng Dompierre (Picardie) năm 1915 của Đỗ Hữu Vị |
Tem Đỗ Hữu Vị do chính phủ Pháp ấn hành |
Video ngắn (2 phút) về Đỗ Hữu Vị vừa được chiếu trên TV Pháp:
Chú thích:
(*). “Les poilus”: (Những người lông lá) ý chỉ quân lính trong thời đại chiến thứ nhất ngày đêm ăn ngủ chiến đấu trong các dãy địa đạo, chiến hào, không thể có điều kiện vệ sinh, nên râu tóc mọc bù xù, hôi hám, dơ bẩn.
(nguồn: http://mttuyet.wordpress.com/ ST sưu tầm)
Một tư liệu lịch sử rất hay, độc đáo...
Trả lờiXóa